Bệnh giả dại hay còn gọi là bệnh AUJESZKY( Morbus Aujeszky) là một bênh truyền nhiễm của lợn xảy ra ở dạng quá cấp tính với tỷ lệ chết cao, đôi khi không có triệu chứng lâm sàng đặc biệt hoặc xảy ra trệu chứng thần kinh ở lợn cai sữa duới 3 tháng tuổi, ở lợn trưởng thành xảy ra dạng giống bênh cúm với triệu chứng viêm phổi.
I. TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Là một loại virut chứa AND. Trong điều kiện đông lạnh hoặc sấy khô nó có thể tồn tại đến một năm. Ánh sáng trực tiếp của mặt trời giết chết siêu vi trùng giả dại trong vòng 6-7 giờ, nhiệt độ 1000C- sau 30 giây, 700c- sau 15 phút, 600C – sau 1 giờ. Trong thức ăn siêu vi trùng giữ hoạt lực trong vòng 40 ngày, ở trên mặt đất 6 giờ đến 5 ngày, ở xác gia xúc thối rửa 10-28 ngày, ở xác gia súc không bị thối rửa 8-175 ngày.
Dưới tác dụng của dung dịch xút 2-3% hay nước vôi 15-20% siêu vi trùng giả dại chết sau một vài phút, nó tương đối bền vững đối với tác dụng của phenol, creolin…
II. CÁCH LÂY LAN
Trong điều kiện tự nhiên các loại gia súc bị nhiễm bệnh giả dại là: lợn, trâu, bò, cừu, dê, ngựa, chó, mèo và một số súc vật hoang dại khác như; chuột, lợn rừng, chồn, cáo…Trong điều kiện gây bênh nhân tạo: thỏ, chuột bạch và nhiều loại gia cầm khác.
Lợn tất cả các lứa tuổi đều bị nhiễm bênh giả dại. Tuy nhiên, mẫn cảm nhất là lợn con sơ sinh, nái nuôi con, nái chữa cuối kỳ.
Một trong những nguồn lây bênh chính là lợn ốm, chúng thải siêu vi trùng theo nước mũi, nuớc tiểu và sữa, lợn ốm khỏi bễnh có thể thải mầm bệnh một vài tuần sau khi bình phục. Nguy hiểm nhất là chuột mang mầm bệnh , vì mầm bênh có thể tồn tại ở cơ thể chúng 100 ngày hoặc hơn.
Bệnh có thể lây lan theo con đường cơ học qua ve, rận và một số loại kí sinh trùng khác. Ngoài ra chim cũng có thể bị nhiễm bệnh giả dại và vật truyền bệnh.
Trong tự nhiên, gia súc bị nhiễm chủ yếu qua đuờng ăn uống. Lợn con bị nhiễm do bú sữa của lợn mẹ bị ốm.Bệnh giả dại xảy ra quanh năm theo từng đợt dịch. Trong vòng chục ngày có thể ốm 60-90, có khi 100% số lợn. Đợt dịch thường kéo dài 1-1,5 tháng, tạm ổn định một thời gian rồi nổ đợi dịch mới.Thông thường trước khi xảy ra dịch ở gia súc sẽ xảy ra dịch ở chuột trước. Đó là một điều kiện để chẩn đốn sớm bệnh giả dại và có biện pháp phòng chống kịp thời.
III. CÁCH SINH BỆNH.
Tồn tại hai quan niệm về vấn đề này. Theo quan niệm thứ nhất, siêu vi trùng giả dại là loại hướng thần kinh bởi thế chúng phân toả trong cơ thể theo mô thần kinh.
Theo quan niệm thứ 2- hướng tồn thân, có nên trước hết chúng gây nhiễm trùng huyết tiếp theo nó mới khu trú ở hệ thần kinh. Ngày nay, phần lớn người ta đồng ý theo quan niệm thứ hai. Trong thời kì nhiễm trùng huyết, siêu vi trùng được phát hiện nhiều ở trong máu, các cơ quan nội tạng, cơ và da. Đặc biệt thấy nhiều ở trong mô phổi, dịch phổi viêm và chất nhầy từ mũi, còn trong nước tiểu rất ít gặp. Sau khi vào hệ thần kinh, siêu vi trùng cư trú nhiều ở hành não, cầu não, chúng gâu viêm não và tuỷ dẫn đến kiệt thần kinh gia súc ốm, bởi vậy người ta gọi là bệnh truyền nhiễm hành não. Ở lợn trưởng thành , siêu vi trùng gây tổ thương cơ quan hô hấp, dẩn đến viêm phổi tiết dịch tràn lan.
IV. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG.
Thời kì ủ bênh kéo dài 5-10 ngày. Ở lợn sơ sinh dưới 10 ngày tuổi bệnh xảy ra rất nhanh, vì chúng có thể bị nhiễm bệnh qua bào thai hoặc bú sữa của lợn cái bị ốm. Ở dạng cấp tính lợn con có thể bị chết 100% số đầu con.
Ở lợn con theo mẹ hơn 10 ngày tuổi, lợn cai sữa và lợn hậu bị bệnh xảy ra ở dạng cổ điển với triệu chứng tổn thương hệ thần kinh trung ương, biểu hiện co giật, động kinh, liệt… trước khi các triệu chứng trên xuất hiện thì hiện tựơng nhiễm trùng huyết đặc trưng: sốt cao (Đến 420C, ủ rủ, giảm ăn. Lợn ốm bị kích thích, run,co giật, chảy nước bọt. Sau khoảng 1-3 ngày nếu lợn không chết thì xuất hiện triệu chứng tổn thương hệ thần kinh trung ương. Vào thời điểm này thân nhiệt thường giảm, đôi khi tăng cao. Lợn chuyển động vô định hướng, dáng đi không chắc chắn, xoay vòng tròn. Đồng tử lợn ốm giảm nên mất thị giác, nôn hoặc muốn nôn. Vào giai đoạn xuất hiện triệu chứng thần kinh lợn ốm rất mẫn cảm với tác động bên ngồi, khi sờ vào lợn rít lên. Về sau tính mẫn cảm giảm xuống và lợn kêu lạc giọng, cuối cùng do liệt cac dây chằng cuống họng nên bị mất tiếng. Đặc trưng cua giai đoạn này là lợn cong lưng, mông yếu, khi nằm xuống thì chân lợn bơi trong chân khí.

Ở lợn con, bệnh có thể xảy ra ở dạng như bị chống. Lợn con ốm thường đứng ở tư thễ mõm dựa vào thành chuồng, sàn hoặc máng ăn, mất phản xạ với xung quanh. Trong trường hợp này các dady6 thần kinh chuyển động bị liệt, mất giọng, từ mũi chảy nhiều bọt và nước nhớt, hoạt động tim mạch bị rối loạn, mạch đập có thể tăng lên 140-150 và nhịp thở tăng lên 28-35 lần trong phút do viêm và phù ở phổi. Tỷ lệ chết cuả lợn trong bệnh giả dại cổ đien963 phụ thuộc vào lứa tuổi và mức độ nặng nhẹ của bệnh và có thể xảy ra trong khoảng 16-36 giờ hoặc đến 10 ngày kể từ khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng.
Heo cai sữa bị viêm phổi, mắt sưng.

Đôi lúc bệnh xảy ra ức chế, không có các biểu hiện rối loạn thần kinh. Lợn ốm bị hôn mê, yếu và bỏ ăn, rất khó chuẩn đốn. Trong trường hợp này phải gửi bệnh phẩm đi xét nghiệm ở các cơ sở thú y chuyên nghành. Triệu chứng lâm sàng ở lợn cai sữa sau 3 tháng tuổi và lợn trưởng thành xảy ra nhẹ hơn – giống bệnh cúm. Lợn ốm yếu, bồn chồn, ăn yếu hoặc bỏ ăn, thân nhiệt tăng lên 41-420C.Xuất hiện triệu chứng rít, ho, đôi khi thấy chảy dịch mũi. Bệnh kéo dài 3-7 ngày và lợn tự khỏi bệnh. Ở một ít lợn (dưới 3%) xuất hiện rối loạn thần kinh. Tỷ lệ chết thường không vượt quá 3-5%. Khi bị mắc giả daị, lợn thường bị bội nhiễm các bệnh khác như nhiễm trùng huyết, phó thưong hàn.
V. BỆNH TÍCH
Không có bệnh tích điển hình. Biến đổi bệnh tích thường xảy ra ở não. Màng não bị xung huyết, đôi khi thấy xuất huyết ở trong não.
Niêm mạc mũi bị xưng, phổi bị viêm và phù nễ. Ở lợn theo mẹ xuất hiện xuất huyết điểm ở dưới vỏ thận.
nốt hoại tử trên hạch amidan sau khi lấy mô hoại tử đi

Ngồi ra còn thấy xuất huyết điểm trên niêm mạc ruột non. Ở gan thường thấy nhiều điểm hoại tử máu xám hoặc hơi vàng.
Heo mẹ sinh ra heo con có hiện tượng dị hình, dị dạng
VI. CHẨN ĐOÁN.
Dựa trên kết quả lâm sàng và xét nghiệm trong phòng chẩn đoán. Đối với bệnh giả dại đặc trưng: có mối liên quan với việc xuất hiện bệnh giả dại ở ở chuột và động vật ăn cỏ, có tính lây lan rất lớn ở lợn, không theo mùa vụ, có triệu chứng rối loạn thần kinh ở lợn con theo mẹ và tỷ lệ chết rất cao, đối với lợn trưởng thành bệnh xảy ra ở mức độ nhẹ kèm theo các triệu chứng tổn thương cơ quan hô hấp. Cần chẩn đoán phân biệt bệnh giả dại đối với các bệnh: dịch tả lợn, viêm màng não truyền nhiễm, Literia, điên, phù thũng, nhiễm trùng huyết, thiếu vitamin và ngộ độc thức ăn. Bệnh dịch tả lợn có thể xảy ra với triệu chứng tổn thương cơ quan thần kinh trung ương, nhưng khác ở điểm tỉ lệ chết của lợn truởng thành rất cao, trong khi đó tỷ lệ chết cao do bệnh giả dại xảy ra ở đàn lợn con theo mẹ và chuột, thêm vào đó triệu chứng rối loạn thần kinh trung ương do bệnh dịch tả gây ra thường rất ít gặp, nhưng có xuất huyết ở nhiều cơ quan. Bệnh viêm màng não truyền nhiễm có thể xảy ra với các triệu chứng lâm sàng giống như bệnh giả dại nhưng các loại gia súc khác không mắc bệnh viêm màng não truyền nhiễm. Điểm quan trọng nhất phân biệt hai bệnh này là dùng phản ứng sinh học thử trên thỏ. Trong bệnh viêm mành não truyền nhiễm phản ứng sinh học cho kết quả âm tính . Đối với bệnh Listeria gây ra đặc trưng rối loạn hê thần kinh trung ương, đặc biệt ở lợn con 1-2 tháng tuổi. Chẩn đốn phân biệt cuối cùng là ở trong phòng thí nghiệm. Bệnh phù thũng(coli dung huyết) cũng xảy ra ở dạng rối loạn thần kinh nhưng điểm khác với bệnh giả dại là đặc trưng phù ở vùng trán, mi mắt, hầu, viêm sưng thàng dạ dày – ruộ và màng treo ruột già. Bệnh phù thũng phàn lớn xảy ra ở lợn cai sữa, sau cai sưã và những co to béo nhất đàn bị trứơc. Bệnh nhiễm trùng huyết rất hiếm khi xảy ra ở dạng độc lập. Nó có thể bội nhiễm bệnh giả dại, chủ yếu ở lợn truởng thành. Trong đó một số bệnh như dịch tả lợn và cúm lại bị bội nhiễm bởi nhiễm trùng.
Trong chẩn đoán cần phân biệt thiếu vitamin và ngộ độc thức ăn và bệnh giả dại cần đánh giá mức độ lây lan, thành phần và chất lượng thức ăn, điển đặc biệt khi xuất hiện bệnh và tiến triển bệnh.
VII. MIỄN DỊCH.
Lợn ốm khỏi bệnh miễn dịch đến 2 năm hoặc hơn. Lợn con sinh ra từ nái ốm đã khỏi bênh, trừ một số ít trừơng hợp có miễn dịch đến 45-50 ngày, một số liên đến một năm. Huyết thanh của lợn ốm khỏi bệnh chưá kháng thể đặc biệt trung hòa được siêu vi trùng gây bệnh giả dại.
VIII. ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG BỆNH.
Hiện nay chưa có thuốc đăc trị. Kháng huyết thanh chỉ có hiệu lực ở giai đoạn đầu của bệnh và giá thành đắt nên ít sử dụng.
Có thể điều trị theo cách sau:
- Để hạ sốt tiêm Fynadyl 1/25kg thể trọng, ngày 1 lần.
- Thuốc an thần dùng 2-3ml dung dịch Aminazinl. 1% tiêm bắp cho lợn 10kg.
- Lấy huyết thanh của lợn ốm bệnh giả fại đã khỏi, tiêm dưới da với liều 3-5 ml/con/lần, 2-3 ngày sau tiêm mũi thứ 2.
- Dùng các loại kháng sinh chống nhiễm trùng như: Pendistrep LA (Bỉ) (1 ml/10kg thể trọng), Vetrimoxil LA (pháp). 1ml/10kP.....
Ngồi ra còn dùng các loại thuốc bổ trợ và trợ lực như :Cafein, Vitamin B1, Vitamin C, Urotropin, Calcium fort, Calci B12…
Tiêm Phòng cho heo nái 4 tháng 1 lần bang vacxin giả dại:
vacxin Pocilis Begonia (intervet - Hà Lan) hoặc các vacxin khac trên thị trường việt nam.
TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI & GIẢI PHÁP THÚ Y "Trợ thủ đắc lực của nhà chăn nuôi"
Bác sỹ thú y: Phạm Xuân Trịnh
DD: 0977 809 555
Zalo: +84 983843015
Mail: xuantrinhmvt@gmail.com
Face book: Trịnh Phạm Xuân

0 nhận xét:
Đăng nhận xét